Lịch sử của y tế công cộng Y_tế_công_cộng

Y tế công cộng là khái niệm hiện đại, mặc dù nguồn gốc có từ xa xưa. Từ thời kì sơ khai của nền văn minh con người, tình trạng ô nhiễm nước và thiếu nguyên tắc trong việc bố trí rác thải có thể tạo ra véc-tơ lây truyền bệnh dịch. Nhiều tôn giáo cổ xưa cũng đã đưa ra quy định trong hành vi liên quan tới sức khỏe: từ các loại thức ăn nào thì được dùng, cho tới đánh giá hành vi nào bị coi là buông thả theo khoái cảm, chẳng hạn uống rượu hay quan hệ tình dục. Những chính phủ đã thiết lập nên nơi có quyền lãnh đạo và phát triển chính sách sức khỏe cộng đồng và những chương trình chống lại các nguyên nhân gây bệnh nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn, phồn vinh của quốc gia.

Y tế công cộng thời xa xưa

Từ trước thời La Mã, người ta đã biết nhiều về y tế công cộng: những hành động can thiệp hợp lý của người làm công việc rác thải là rất cần thiết cho sức khỏe cộng đồng ở khu vực thành thị. Người Trung Quốc đã biết phát triển thói quen phòng dịch sau khi trải qua một trận dịch đậu mùa khoảng năm 1.000 trước công nguyên. Người không mắc bệnh có thể nhận được ít nhiều miễn dịch chống lại căn bệnh nhờ nuốt vảy khô của người đã nhiễm. Tương tự, trẻ em cũng có thể được bảo vệ nhờ tiêm vào cẳng tay một vết nhỏ mủ từ một người bệnh. Cách làm này chỉ xuất hiện ở phương tây những năm đầu 1700, và được sử dụng rất hạn chế. Tiêm chủng băng vắc-xin chỉ trở nên phổ biến những năm 1820, sau thành công của Edward Jenner trong việc điều trị đậu mùa.

Trong suốt thế kỷ 14, dịch chết Đen lan rộng ở châu Âu, người ta cho rằng thủ tiêu các cơ thể bị chết có giúp thể ngăn ngừa được nhiễm trùng vi khuẩn này về sau. Điều này đã giải quyết được một phần gốc rễ của dịch bệnh, tuy vậy, căn bệnh lại được lan truyền chủ yếu do bọ chét trên các loài gặm nhấm. Nhiều khu vực trong các thành phố bị đốt chát đã giúp ích rất nhiều bởi vì nó đã tiêu diệt nhiều động vật gặm nhấm mắc bệnh.

Dịch tả, đại dịch thứ hai tàn phá châu Âu từ năm 1829 tới năm 1851.

Y tế công cộng thời hiện đại

Khi tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm ở các nước phát triển giảm xuống trong thể kỷ 20, y tế công cộng bắt đầu tập trung hơn nữa vào các bệnh mãn tính như ung thư và bệnh tim. Trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn còn đang các bệnh truyền nhiễm có thể phòng tránh được hoành hành, tàn phá, cùng với suy dinh dưỡng và nghèo đói.

Gánh nặng của chữa trị lâm sàng do người thất nghiệp, nghèo đói, nhà cửa tồi tàn và ô nhiễm môi trường lên tới 16-22% ngân sách y tế của vương quốc Anh.

Lịch sử phát triển y tế công cộng ở Việt Nam

Từ ngày thành lập nước năm 1945, Việt Nam đã khẳng định y học dự phòng luôn là ưu tiên hàng đầu: phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo tinh thần đó, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống vệ sinh dịch tễ học theo mô hình Liên Xô nhấn mạnh vào việc phòng và chống các bệnh truyền nhiễm bởi lúc đó bệnh truyền nhiễm đóng vai trò chủ yếu trong cấu trúc bệnh tật ở Việt Nam, hoàn toàn có thể khống chế được thông qua các biện pháp đặc hiệu như dùng vắc-xin và không đặc hiệu như tuyên truyền.

Trong khi đó, những tiến bộ trong cách đề cập dịch tễ học đang diễn ra tại những nước phương tây, chủ yếu là các nước nói tiếng Anh, đang ngày một mạnh mẽ. Những tiến bộ đó chỉ được đưa vào một cách không chính thức thông qua các cuốn sách dịch tễ học được những người có dịp đi học, công tác tại các nước phát triển mang về và đại học Y Hà Nội đã nghiên cứu và dần đưa vào giảng dạy đầu những năm 1980.